Khối đại đoàn kết dân tộc trong lịch sử Việt Nam là một yếu tố có ý nghĩa sống còn, không chỉ tạo nên sức mạnh nội sinh giúp dân tộc trường tồn qua nhiều thế kỷ, mà còn định hình bản sắc văn hóa, tư tưởng, và cách thức tổ chức xã hội. Trong suốt tiến trình lịch sử, từ buổi đầu dựng nước và giữ nước, đến các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, khối đại đoàn kết dân tộc luôn giữ vị trí trung tâm, là nền tảng bền vững cho sự phát triển của đất nước.
Trước hết, ngay từ thời kỳ Văn Lang – Âu Lạc, cộng đồng người Việt cổ đã hình thành ý thức cộng đồng dựa trên sự gắn kết giữa các tộc người, các làng xã, dựa trên những lợi ích chung như canh tác nông nghiệp, chống lại thiên tai, động vật hoang dã, từ đó xây dựng mối quan hệ đùm bọc, chia sẻ. Ý thức cộng đồng ban đầu này là cơ sở để hình thành nên các tổ chức xã hội sơ khai, tập hợp người dân quanh người đứng đầu có uy tín, quyền lực tượng trưng cho cả cộng đồng. Khi kẻ thù xâm lược xuất hiện, mọi thành phần trong xã hội, bất kể địa vị, nghề nghiệp hay thành phần xuất thân, đều sát cánh bên nhau để bảo vệ lãnh thổ và giống nòi. Đây là tiền đề cho tinh thần đoàn kết được hun đúc qua nhiều thế kỷ.
Vào các triều đại phong kiến sau này, như Lý, Trần, Lê… ý thức đại đoàn kết dân tộc không chỉ thể hiện trong việc huy động sức dân xây dựng đê điều, phát triển nông nghiệp và tổ chức xã hội, mà còn được nâng lên tầm quốc sách khi đất nước bị đe dọa bởi các thế lực xâm lược phương Bắc hay từ phương Nam. Những cuộc kháng chiến chống Tống, chống Nguyên – Mông, chống Minh… đã khẳng định rằng, chỉ khi triều đình và nhân dân thống nhất ý chí, vua tôi đồng lòng, toàn dân chung sức, thì mới có thể đánh bại kẻ thù mạnh hơn về quân sự. Cuộc kháng chiến chống Nguyên – Mông thế kỷ XIII hay cuộc khởi nghĩa Lam Sơn thế kỷ XV là ví dụ điển hình: tinh thần đại đoàn kết dân tộc đã tạo nên chiến thắng thần kỳ, bảo vệ độc lập và chủ quyền đất nước. Tư tưởng "lấy dân làm gốc", "khoan sức cho dân", "tướng – sĩ một lòng phụ tử" thể hiện rõ trong thơ văn, chiếu dụ, hay các bộ luật và chính sách khoan thư, minh trị.
Đại đoàn kết dân tộc cũng hiện hữu trong đời sống văn hóa – xã hội, thể hiện qua sự hòa hợp giữa các cộng đồng dân tộc, tôn giáo và vùng miền. Nước ta có hơn 50 dân tộc, mỗi dân tộc lại có nét văn hóa, ngôn ngữ, phong tục, tín ngưỡng, lễ hội riêng. Tuy vậy, tất cả đều sống trên dải đất hình chữ S, được kết nối bởi lịch sử, địa lý và truyền thống đấu tranh chung. Sự gắn bó này không chỉ dừng lại ở kháng chiến chống ngoại xâm, mà còn thể hiện trong việc trao đổi hàng hóa, kinh nghiệm sản xuất, nghệ thuật, âm nhạc, tiếng nói, tạo nên một bức tranh văn hóa đa dạng, nhưng thống nhất và hòa hợp. Những giá trị như nhân nghĩa, lòng yêu nước, tinh thần tương thân tương ái, kính trọng tổ tiên, anh hùng dân tộc và lịch sử chung đã trở thành nền tảng tâm thức xã hội, gìn giữ cộng đồng các dân tộc Việt Nam trong một khối thống nhất.
Trong những giai đoạn lịch sử cận – hiện đại, khi đất nước đối diện với sự xâm lược và thống trị của thực dân, đế quốc, tinh thần đại đoàn kết dân tộc lại được khơi dậy và phát huy cao độ. Phong trào Cần Vương, Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục, Việt Minh… đều tìm cách đoàn kết mọi lực lượng yêu nước, không phân biệt giai cấp, tầng lớp, tín ngưỡng, để chung tay đấu tranh giành lại độc lập. Đó là thời kỳ mà các sĩ phu yêu nước, nông dân, công nhân, tư sản dân tộc, tri thức mới cùng hội tụ chung mục tiêu: đánh đuổi thực dân, khôi phục chủ quyền. Ý thức đại đoàn kết dân tộc được chính thức hóa, định hình về mặt chính trị trong cương lĩnh, đường lối và chính sách của các tổ chức yêu nước, tiêu biểu là Mặt trận Dân tộc Thống nhất.
Trong thế kỷ XX, Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kế thừa và phát triển truyền thống đại đoàn kết dân tộc thành một nội dung cốt lõi của cách mạng Việt Nam. Người nhiều lần nhấn mạnh: "Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công." Tư tưởng này được quán triệt trong mọi chặng đường lịch sử: Cách mạng Tháng Tám 1945 là kết quả của sự đoàn kết toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trong các cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, và tiếp đó là công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, khối đại đoàn kết toàn dân tộc tiếp tục là ngọn đuốc soi đường, tạo nên sức mạnh toàn diện để vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách.
Khối đại đoàn kết dân tộc không chỉ là một giá trị truyền thống mang tính lịch sử, mà còn là động lực phát triển hiện nay và tương lai. Trước bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, sự chuyển biến nhanh chóng của khoa học – công nghệ, nhiều thách thức mới nảy sinh: khoảng cách phát triển, sự khác biệt về lợi ích, các vấn đề văn hóa – xã hội nảy sinh từ sự đa dạng dân tộc và tôn giáo. Tuy nhiên, tinh thần đại đoàn kết dân tộc tiếp tục khẳng định vai trò trọng yếu. Việc phát huy tinh thần này không chỉ là mục tiêu trong lĩnh vực chính trị – xã hội, mà còn là nền tảng để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân, bảo vệ an ninh quốc gia và chủ quyền lãnh thổ.
Hôm nay, chính sách đại đoàn kết dân tộc được cụ thể hóa qua Hiến pháp và pháp luật, qua hệ thống Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, qua chủ trương tôn trọng sự đa dạng văn hóa, khuyến khích các phong trào thi đua yêu nước, bảo tồn di sản, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào các dân tộc. Cơ chế đối thoại, lắng nghe, hòa giải và hợp tác giữa các cộng đồng, các thành phần xã hội, các tôn giáo được chú trọng. Những thành tựu về phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới, chăm sóc y tế, giáo dục, cũng như việc bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ đều gắn liền với việc củng cố và phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Tóm lại, khối đại đoàn kết dân tộc trong lịch sử Việt Nam là một đặc trưng nổi bật, xuyên suốt qua mọi chặng đường, từ cổ đại đến hiện đại. Nó xuất phát từ nhu cầu tự nhiên của cộng đồng về sự gắn bó, tương trợ lẫn nhau, được hun đúc và củng cố trong quá trình dựng nước và giữ nước, trở thành giá trị cốt lõi của dân tộc. Chính tinh thần này đã giúp Việt Nam vượt qua nhiều thử thách, biến nguy thành cơ, và tiếp tục là nền tảng vững chắc cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, đưa đất nước tiến bước trong thời đại mới.