Hoạt động đối ngoại của Việt Nam trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc từ đầu thế kỉ XX đến Cách mạng tháng Tám năm 1945 là một phần quan trọng trong lịch sử dân tộc. Đây là thời kỳ mà các phong trào cách mạng không chỉ diễn ra sôi động trong nước mà còn được kết nối và nhận sự ủng hộ từ các phong trào giải phóng trên thế giới. Nổi bật trong giai đoạn này là sự phát triển của các hoạt động đối ngoại nhằm tạo dựng liên minh, tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế và xây dựng một cơ sở chính trị vững chắc để lãnh đạo cách mạng.
Trong giai đoạn đầu thế kỉ XX, hoạt động đối ngoại của Việt Nam tập trung chủ yếu vào việc tiếp cận các tư tưởng tiến bộ từ bên ngoài. Các sĩ phu yêu nước như Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh đã tìm kiếm sự giúp đỡ từ các quốc gia như Nhật Bản và Trung Quốc. Phan Bội Châu sáng lập Duy Tân hội và thực hiện phong trào Đông Du với mục tiêu đưa thanh niên sang Nhật Bản học tập để sau này phục vụ công cuộc giải phóng dân tộc. Tuy nhiên, do chính sách thực dụng của Nhật Bản, phong trào Đông Du bị đàn áp và nhiều người yêu nước bị trục xuất.
Cùng với đó, Phan Châu Trinh lựa chọn con đường cải cách ôn hòa, kêu gọi sự ủng hộ từ chính quyền thực dân Pháp thông qua các biện pháp bất bạo động. Tuy nhiên, chiến lược này cũng không đạt được hiệu quả lớn do sự đàn áp mạnh mẽ của thực dân.
Bước sang những năm 1920, hoạt động đối ngoại của cách mạng Việt Nam có sự thay đổi rõ rệt khi Nguyễn Ái Quốc xuất hiện như một nhà lãnh đạo nổi bật. Nguyễn Ái Quốc không chỉ truyền bá tư tưởng cách mạng vô sản vào Việt Nam mà còn tích cực tham gia các phong trào quốc tế. Năm 1920, Nguyễn Ái Quốc trở thành một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp và từ đây đã tận dụng các diễn đàn quốc tế để lên tiếng về tình cảnh thuộc địa. Bản Yêu sách của nhân dân An Nam được Nguyễn Ái Quốc gửi đến Hội nghị Versailles năm 1919, mặc dù không được chấp nhận, nhưng đã gây tiếng vang lớn, đưa vấn đề độc lập dân tộc của Việt Nam ra tầm quốc tế.
Năm 1930, sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam đã tạo điều kiện cho các hoạt động đối ngoại trở nên bài bản và có tổ chức hơn. Trong bối cảnh thế giới đang chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu và sự phát triển của các lực lượng cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tích cực tham gia phong trào cộng sản quốc tế, tranh thủ sự hỗ trợ của Quốc tế Cộng sản. Những hoạt động này không chỉ giúp cách mạng Việt Nam có thêm nguồn lực mà còn giúp kết nối cuộc đấu tranh của Việt Nam với phong trào cách mạng của các dân tộc bị áp bức trên thế giới.
Trong giai đoạn từ năm 1940 đến Cách mạng tháng Tám năm 1945, hoạt động đối ngoại của cách mạng Việt Nam tiếp tục được mở rộng và đạt được những kết quả đáng kể. Trước sự chiếm đóng của phát xít Nhật, Đảng Cộng sản Đông Dương đã khéo léo tận dụng mâu thuẫn giữa Nhật và Pháp để đề ra các chiến lược phù hợp. Bên cạnh đó, Việt Minh dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh đã tranh thủ sự ủng hộ của các nước Đồng minh trong cuộc chiến chống phát xít. Sự kiện nổi bật trong thời kỳ này là việc Hồ Chí Minh gặp gỡ các đại diện Mỹ để tranh thủ sự hỗ trợ quân sự và chính trị.
Những nỗ lực đối ngoại của Việt Minh đã góp phần quan trọng vào thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945. Việc thành lập Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Tuyên ngôn độc lập không chỉ đánh dấu sự thành công của cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc mà còn thể hiện thành quả của một chiến lược đối ngoại khéo léo, kiên trì và hiệu quả.
Hoạt động đối ngoại của Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến năm 1945 đã phản ánh sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tinh thần dân tộc và sự vận dụng các yếu tố quốc tế. Những thành tựu đối ngoại trong giai đoạn này không chỉ để lại bài học quý giá về chiến lược ngoại giao mà còn là nền tảng để Việt Nam xây dựng quan hệ quốc tế trong các giai đoạn tiếp theo.