Bài tập 1 trang 90 SBT Lịch sử 12 Bài 17
Sau cách mạng tháng Tám năm 1945 quân đội nước nào thuộc phe đồng minh kéo vào nước ta?
Sau khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, quân đội của các nước trong phe Đồng minh đã tiến vào nước ta nhằm giải giáp quân Nhật, giúp chính quyền mới của nước ta duy trì trật tự. Trong đó, quân Trung Hoa Dân quốc và quân Anh đã kéo vào nước ta. Tuy nhiên, quân Trung Hoa Dân quốc chủ yếu tiến vào miền Bắc để giải giáp quân Nhật theo thoả thuận của phe Đồng minh, trong khi quân Anh vào miền Nam để đối phó với các lực lượng Nhật còn lại. Tuy vậy, chính quân Pháp mới là lực lượng nguy hiểm mà chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải đối đầu, do họ muốn quay lại xâm lược Việt Nam sau khi Nhật đầu hàng. Vì vậy, câu trả lời đúng cho câu hỏi này là quân Anh và quân Trung Hoa Dân quốc.
Kẻ thù nguy hiểm nhất của cách mạng nước ta sau cách mạng tháng Tám năm 1945 là?
Sau khi cách mạng tháng Tám thành công, nước ta phải đối mặt với rất nhiều thử thách và kẻ thù nguy hiểm. Tuy nhiên, thực dân Pháp là mối nguy hiểm lớn nhất đối với cách mạng nước ta trong thời gian này. Pháp đã tìm cách quay lại Đông Dương sau khi Nhật đầu hàng Đồng minh. Chính phủ Pháp không chấp nhận sự độc lập của Việt Nam và có những hành động xâm phạm chủ quyền quốc gia. Mặc dù quân Trung Hoa Dân quốc có mặt ở miền Bắc và ban đầu có những động thái đe dọa, nhưng họ không phải là kẻ thù chính, mà chỉ là lực lượng tạm thời được cử vào giải giáp quân Nhật. Đối với Đảng và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Pháp luôn là mối đe dọa lớn nhất trong việc bảo vệ độc lập và xây dựng chính quyền cách mạng. Vì vậy, kẻ thù nguy hiểm nhất sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 là thực dân Pháp.
Khó khăn lớn nhất của nước ta sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 là gì?
Sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, nước ta đối mặt với vô vàn khó khăn. Tuy nhiên, khó khăn lớn nhất và quan trọng nhất là sự đe dọa từ các thế lực ngoại xâm, đặc biệt là thực dân Pháp, cùng với nội loạn từ các lực lượng phản động trong nước. Trong khi đó, chính quyền cách mạng còn non trẻ, thiếu kinh nghiệm và thiếu sự ủng hộ hoàn toàn từ mọi tầng lớp trong xã hội. Nạn đói là một vấn đề cấp bách, nhưng nó không phải là khó khăn lớn nhất mà chính quyền mới phải đối mặt. Chính quyền cách mạng còn phải đối phó với các âm mưu phản cách mạng, sự phá hoại từ các thế lực cũ, và nguy cơ nội chiến giữa các phe phái. Vì vậy, vấn đề ngoại xâm và nội phản phá hoại mới thực sự là khó khăn lớn nhất mà đất nước phải đối mặt trong thời kỳ này.
Cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên bầu Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà diễn ra ngày?
Cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên bầu Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà diễn ra vào ngày 6 tháng 1 năm 1946. Đây là sự kiện quan trọng, đánh dấu sự trưởng thành của chính quyền cách mạng và sự tham gia của nhân dân trong việc xây dựng bộ máy nhà nước mới. Quốc hội Việt Nam Dân chủ Cộng hoà được thành lập không chỉ là bước đi quan trọng trong việc củng cố chính quyền mà còn là tín hiệu cho sự tự do, độc lập của dân tộc sau nhiều năm bị đô hộ và chiến tranh.
Sau cách mạng tháng Tám năm 1945, để giải quyết căn bản nạn đói, biện pháp quan trọng hàng đầu và có tính chất lâu dài là?
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, nạn đói là vấn đề vô cùng nghiêm trọng. Biện pháp quan trọng và có tính chất lâu dài để giải quyết nạn đói là tăng gia sản xuất. Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã phát động phong trào tăng gia sản xuất, kêu gọi nhân dân tăng cường sản xuất nông nghiệp để cung cấp lương thực cho quốc gia. Đồng thời, các biện pháp như quyên góp, điều hòa thóc gạo giữa các địa phương trong cả nước và phong trào "Hũ gạo cứu đói" cũng được tổ chức để giải quyết tình trạng khẩn cấp của nạn đói. Tuy nhiên, tăng gia sản xuất là biện pháp căn bản và lâu dài nhất để đảm bảo nguồn thực phẩm ổn định cho nhân dân và giảm bớt tình trạng thiếu thốn.
Sự kiện mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược lần thứ hai của thực dân Pháp là?
Cuộc chiến tranh xâm lược lần thứ hai của thực dân Pháp bắt đầu từ ngày 23 tháng 9 năm 1945 khi quân Pháp đánh úp trụ sở Uỷ ban nhân dân Nam Bộ và các cơ quan tự vệ của thành phố Sài Gòn. Đây là hành động khiêu khích và xâm lược chính thức, báo hiệu sự trở lại của quân đội thực dân Pháp và khởi đầu cho cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ hai. Sự kiện này đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong việc tái xâm lược Việt Nam của Pháp và là tiền đề cho cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân Việt Nam.
Vì sao Đảng và chính phủ ta đề ra chủ trương kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược sau cách mạng tháng Tám năm 1945?
Đảng và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đề ra chủ trương kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược sau khi nhận thấy rõ dã tâm của thực dân Pháp. Mặc dù Pháp đã thừa nhận Việt Nam là một quốc gia độc lập về mặt pháp lý, nhưng họ không chấp nhận nền độc lập thực sự của Việt Nam và đang chuẩn bị quay lại xâm lược. Chính phủ cách mạng nhận thức được rằng việc duy trì nền độc lập của đất nước không thể thiếu sự đấu tranh vũ trang, khi mà các thế lực phản động và thực dân đang tìm cách phá hoại công cuộc cách mạng. Chính vì vậy, chủ trương kháng chiến chống Pháp là một lựa chọn không thể tránh khỏi để bảo vệ độc lập, tự do cho dân tộc.
Đảng và chính phủ ta có chủ trương như thế nào trong việc đối phó với quân Trung Hoa Dân quốc sau cách mạng tháng Tám năm 1945?
Đảng và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà theo chủ trương hòa hoãn với quân Trung Hoa Dân quốc để tập trung đối phó với quân Pháp. Lúc này, quân Trung Hoa Dân quốc đang ở miền Bắc theo yêu cầu của phe Đồng minh, và mặc dù có những hành động gây căng thẳng, nhưng chúng không phải là mối đe dọa chính. Chính phủ Việt Nam nhận thức được rằng nếu không hòa hoãn và xử lý khéo léo vấn đề với Trung Hoa Dân quốc, tình hình sẽ càng thêm phức tạp. Vì vậy, chính sách của ta là hòa hoãn với Trung Hoa Dân quốc để bảo vệ chính quyền cách mạng, đồng thời chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài chống thực dân Pháp.
Ý nào không phản ánh đúng nội dung Hiệp định Sơ Bộ (6-3-1946)?
Hiệp định Sơ Bộ ngày 6 tháng 3 năm 1946 được ký kết giữa Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Chính phủ Pháp nhằm mục đích tạo điều kiện để đẩy quân Trung Hoa Dân quốc ra khỏi miền Bắc và xây dựng quan hệ giữa hai bên. Hiệp định này không chỉ thể hiện sự hòa hoãn tạm thời giữa hai bên mà còn mở đường cho việc đối phó với kẻ thù lớn hơn là quân Pháp. Một trong các điều khoản quan trọng của Hiệp định là Pháp công nhận Việt Nam là một quốc gia độc lập, và quân Pháp sẽ thay thế quân Trung Hoa Dân quốc tại miền Bắc. Tuy nhiên, việc hai bên ngừng bắn tại chỗ và sự thoả thuận về quân số là những yếu tố quan trọng giúp ta giành lợi thế trong cuộc kháng chiến lâu dài chống Pháp.
Bản Tạm ước ngày 14 - 9 - 1946 do Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà kí với đại diện Chính phủ Pháp có ý nghĩa?
Bản Tạm ước ký kết vào ngày 14 tháng 9 năm 1946 là một bước đi chiến lược của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà trong giai đoạn căng thẳng với thực dân Pháp. Mặc dù ký kết với mục đích hòa hoãn, bản Tạm ước đã giúp Chính phủ Việt Nam kéo dài thời gian hòa hoãn để củng cố lực lượng, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống Pháp không thể tránh khỏi. Thực tế, đây là một động thái giúp ta tránh được cuộc chiến đấu bất lợi khi phải đối phó với nhiều kẻ thù cùng một lúc. Thời gian hoà hoãn này đã cho Việt Nam một thời gian quý báu để củng cố nền độc lập và xây dựng lực lượng kháng chiến.
Chủ trương của Đảng và chính phủ ta đối với vấn đề thù trong, giặc ngoài (từ sau ngày 2-9-1945 đến trước ngày 19-12-1946) được đánh giá là?
Chủ trương của Đảng và Chính phủ ta trong giai đoạn từ sau ngày 2 tháng 9 năm 1945 đến trước ngày 19 tháng 12 năm 1946 được đánh giá là mềm dẻo về nguyên tắc và cứng rắn về sách lược. Chính quyền mới phải đối phó với nhiều khó khăn, từ ngoại xâm (Pháp) đến nội loạn (các lực lượng phản động). Tuy nhiên, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã thực hiện chiến lược hòa hoãn trong quan hệ với Pháp nhằm tránh một cuộc chiến tranh toàn diện trong thời gian đầu, đồng thời củng cố lực lượng để chuẩn bị cho một cuộc kháng chiến lâu dài. Sự mềm dẻo về nguyên tắc trong giai đoạn này giúp ta đối phó linh hoạt với tình hình thực tế, trong khi sự cứng rắn về sách lược đảm bảo bảo vệ độc lập dân tộc.
Bài tập 2 trang 93 SBT Lịch sử 12 Bài 17
☐ Đ Ngay sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, quân Trung Hoa Dân quốc dưới danh nghĩa Đồng minh giải giáp quân Nhật đã kéo vào miền Bắc nước ta.
☐ Đ Bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà được Quốc hội thông qua ngày 9-11 -1946.
☐ Đ Để giải quyết nạn đói, Đảng và Chính phủ kêu gọi nhân dân cả nước tự nguyện đóng góp tiền của và phát động phong trào "Tuần lễ vàng".
☐ Đ Chủ tịch Hồ Chí Minh kí sắc lệnh thành lập Nha Bình dân học vụ - cơ quan chuyên trách về chống "giặc dốt" - và kêu gọi nhân dân cả nước tham gia phong trào xoá nạn mù chữ.
☐ S Thực dân Pháp quay trở lại xâm lược nước ta lần thứ hai vào ngày 23-9-1945.
☐ Đ Hiệp ước Hoa - Pháp đã đặt nhân dân ta trước sự lựa chọn một trong hai con đường: hoặc cầm súng chiến đấu chống thực dân Pháp, hoặc hoà hoãn nhân nhượng chúng để tránh tình trạng phải đối phó với nhiều kẻ thù cùng một lúc.
☐ Đ Hiệp định Sơ bộ (6 - 3 - 1946) và Tạm ước (14 - 9 - 1946) đã tạo điều kiện cho ta kéo dài thời gian hoà hoãn để xây dựng, củng cố lực lượng, chuẩn bị bước vào cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp lâu dài.
Bài tập 3 trang 93 SBT Lịch sử 12 Bài 17
Thuận lợi: Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, nước ta có nhiều thuận lợi quan trọng. Đầu tiên, nhân dân Việt Nam có một chính quyền cách mạng được thành lập, mở ra cơ hội lớn cho việc thực hiện các cải cách về chính trị, kinh tế và xã hội. Cách mạng tháng Tám đã giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của thực dân Pháp và quân Nhật. Đặc biệt, Việt Nam được quốc tế công nhận là một quốc gia độc lập, dù thực tế còn nhiều thách thức từ các thế lực ngoại bang. Chính quyền cách mạng có sự đoàn kết cao trong xã hội, góp phần tạo điều kiện cho việc xây dựng và củng cố chính quyền mới. Hơn nữa, sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tạo ra niềm tin lớn trong dân chúng, giúp khắc phục nhiều khó khăn ban đầu.
Khó khăn: Sau Cách mạng tháng Tám, nước ta đối mặt với nhiều khó khăn lớn. Chính quyền cách mạng mới chưa có đủ lực lượng để bảo vệ lãnh thổ và đối phó với các nguy cơ ngoại xâm. Các tệ nạn xã hội cũ vẫn tồn tại, đặc biệt là nạn đói, nạn dốt, và sự phân chia giai cấp sâu sắc trong xã hội. Chính quyền cách mạng gặp phải sự chống đối quyết liệt từ các lực lượng phản động, trong khi kẻ thù nguy hiểm nhất là thực dân Pháp đang quay lại xâm lược. Hơn nữa, quân Trung Hoa Dân quốc cũng là một thách thức lớn khi họ xâm lược vào miền Bắc với mục đích giải giáp quân Nhật nhưng lại có những hành động can thiệp vào công việc nội bộ của nước ta. Nạn đói và tình trạng thiếu thốn tài chính cũng làm trầm trọng thêm tình hình, khiến chính quyền cách mạng phải đối mặt với rất nhiều khó khăn về mọi mặt.
Bài tập 4 trang 94 SBT Lịch sử 12 Bài 17
Xây dựng chính quyền cách mạng: Sau Cách mạng tháng Tám, Đảng và Chính phủ đã nhanh chóng xây dựng bộ máy chính quyền cách mạng tại các cấp từ Trung ương đến địa phương. Các cơ quan nhà nước được thành lập, các tổ chức quần chúng được huy động để tham gia vào các hoạt động của chính quyền. Đồng thời, Chính phủ đã kêu gọi các tầng lớp nhân dân tham gia vào công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước.
Giải quyết nạn đói: Để giải quyết nạn đói, Chính phủ đã thực hiện nhiều biện pháp cấp bách như tổ chức các phong trào "Tuần lễ vàng", vận động quyên góp thóc gạo và thực phẩm từ nhân dân. Đồng thời, Chính phủ cũng phát động phong trào tăng gia sản xuất, khuyến khích nhân dân tăng cường sản xuất nông sản, đảm bảo nguồn thực phẩm cho đất nước. Các biện pháp khẩn cấp như phân phối gạo, củng cố hệ thống lương thực cũng được tiến hành.
Giải quyết nạn dốt: Để giải quyết nạn dốt, Chính phủ đã thành lập Nha Bình dân học vụ, tổ chức các lớp học xóa mù chữ cho nhân dân, đặc biệt là những người dân ở vùng nông thôn. Phong trào xoá nạn mù chữ được phát động rộng rãi, thu hút sự tham gia của đông đảo nhân dân và đặc biệt là những trí thức yêu nước.
Giải quyết khó khăn về tài chính: Để giải quyết khó khăn về tài chính, Chính phủ đã phát động các phong trào quyên góp, tổ chức "Tuần lễ vàng" và huy động các nguồn lực trong dân để cung cấp tài chính cho chính quyền mới. Chính phủ cũng phát hành tiền giấy để thay thế đồng tiền cũ và củng cố nền kinh tế quốc gia.
Bài tập 5 trang 95 SBT Lịch sử 12 Bài 17
Đảng và Chính phủ đã thực hiện một chủ trương kháng chiến linh hoạt trong hai giai đoạn quan trọng sau Cách mạng tháng Tám. Trước ngày 6-3-1946, chủ trương của Đảng và Chính phủ là hoà hoãn với Pháp để kéo dài thời gian xây dựng lực lượng và củng cố chính quyền cách mạng, tránh cuộc chiến ngay lập tức. Chủ trương này là bước đi chiến lược để giành thế mạnh trong việc kháng chiến lâu dài. Tuy nhiên, từ ngày 6-3-1946 đến ngày 19-12-1946, với tình hình phức tạp và sự bùng nổ chiến sự, Đảng và Chính phủ chuyển sang chủ trương kiên quyết chống Pháp, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến toàn quốc. Nhận xét về chủ trương này, có thể thấy Đảng và Chính phủ Việt Nam đã rất linh hoạt và sáng suốt trong việc xử lý các tình huống, tạo ra thời gian để xây dựng lực lượng nhưng cũng luôn sẵn sàng đối mặt với kẻ thù khi cần thiết.
Tìm kiếm tài liệu học tập tại Trang chủ