Chương IV: Đảng lãnh đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975)
Chuyển hướng chiến lược mạng của Đảng
Sau khi kết thúc chiến tranh Đông Dương và ký kết Hiệp định Genève (1954), đất nước Việt Nam bị chia cắt thành hai miền với hai hệ thống chính trị khác nhau. Miền Bắc, theo Hiệp định Genève, thuộc về chính quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, còn miền Nam thuộc chính quyền Việt Nam Cộng hòa, với sự mạnh mẽ mạnh mẽ của Mỹ. Trong bối cảnh đó, Đảng Lao động Việt Nam (sau này là Đảng Cộng sản Việt Nam) đã quyết định chuyển hướng chiến lược mạng, tập trung vào việc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đồng thời tiếp tục đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Chuyển hướng chiến lược này có thể làm rõ các công việc ở miền Bắc dưới lãnh đạo tôn giáo của Đảng đã tiến hành cải tiến cách đất đai, xây dựng nền tảng xã hội nghĩa là và củng cố sức mạnh của mạng lưới. Chính quyền miền Bắc không chỉ phải đối mặt với khó khăn trong việc xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa mà còn phải đối đầu với những âm mưu, hành động van van từ phía thế lực thù địch, đặc biệt là từ chính quyền Mỹ và chính quyền Sài Gòn. Để đối phó với tình hình đó, Đảng đã xây dựng một chiến lược toàn diện, bao gồm việc nâng cao khả năng tự động của nền kinh tế miền Bắc, tăng cường sức mạnh quân sự và bảo vệ miền Bắc khỏi các cuộc tấn công quân chủ, đồng thời duy trì liên đoàn trong toàn Đảng và nhân dân.
Thực hiện các kế hoạch nhà nước ở miền Bắc và đấu tranh chống Mỹ và sai ở miền Nam (1954-1965)
Giai đoạn từ năm 1954 đến năm 1965 là thời điểm Bắc thực hiện các kế hoạch nhà nước nhằm mục đích xây dựng xã hội. Đảng và Nhà nước đã phát triển các kế hoạch phát triển kinh tế, cải cách ruộng đất, xây dựng công ty doanh nghiệp nặng và phát triển hệ thống giao thông thông tin. Cùng với đó là nền tảng nền tảng chính trị, giáo dục và văn hóa để xây dựng một xã hội xã hội chủ nghĩa vững chắc, độc lập và tự chủ. Tuy nhiên, trong khi miền Bắc tập trung xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Nam lại là một chiến trường sôi động, nơi mà Mỹ và chính quyền Sài Gòn thực hiện các chiến lược chống cộng tiêu diệt phong cách mạng.
Mặc dù vậy, trong những năm 1954-1965, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ đạo một cuộc đấu tranh không ngừng nghỉ chống lại chính quyền Mỹ và các tay sai ở miền Nam. Đặc biệt, với sự hỗ trợ từ miền Bắc, các phong trào cách mạng, từ các cuộc nổi dậy của nhân dân miền Nam cho đến các cuộc tấn công quân sự của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam, đã tạo ra Mỹ và chính quyền Sài Gòn không thể hoàn toàn kiểm soát Miền Nam. Các chiến dịch quân sự quy mô lớn của quân đội và dân miền Nam đã thu hút sự chú ý của cộng đồng quốc tế và Mỹ phải điều chỉnh chiến lược, đẩy mạnh việc có thể bong quân sự.
Từ năm 1965, Mỹ chính thức đưa quân đội vào miền Nam với số lượng lớn, đánh dấu một bước quan trọng trong chiến tranh Việt Nam. Dù vậy, cuộc chiến tranh du kích của quân đội và dân miền Nam, kết hợp với chỉ đạo sát sao của Đảng đã tạo nên sức mạnh kháng cự kiệt. Quân đội miền Bắc đã tổ chức các cuộc chiến vượt sông, tấn công vào các cơ sở quân sự của Mỹ và lực lượng Sài Gòn. Cuộc chiến tranh đầm phá miền Bắc của Mỹ cũng không thể ngăn cản tâm trí và chiến đấu của nhân dân Việt Nam.
Ý nghĩa, nguyên nhân thắng lợi và kinh nghiệm của cuộc chiến kháng Mỹ cứu nước
Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975) là một cuộc chiến tranh gian khổ và đầy hy sinh của nhân dân Việt Nam, nhưng cũng là một cuộc đấu tranh anh hùng, mang lại những bài học sâu sắc về lý tưởng chiến đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Thắng lợi của cuộc chiến tranh có ý nghĩa vô cùng quan trọng, không chỉ đối với Việt Nam mà còn đối với các phong trào giải phóng dân tộc trên toàn thế giới.
Một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến chiến thắng lợi ích của cuộc chiến tranh là lãnh đạo đạo tài tình của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh để thực hiện cách mạng Việt Nam, xây dựng một chiến lược chiến tranh toàn dân, toàn diện, kết hợp giữa chiến tranh quân sự và chiến tranh chính trị , đấu tranh vũ trang và đấu tranh ngoại giao. Đảng đã tạo ra sự đoàn kết tuyệt đối trong toàn dân tộc, từ các lực lượng vũ trang trang đến nhân dân lao động, làm nền tảng cho những chiến thắng vang dội trong giai đoạn quyết định của cuộc chiến.
Ngoài ra, nguyên nhân quan trọng khác là người hỗ trợ quốc tế đấu tranh chính nghĩa của nhân dân Việt Nam. Trong cuộc kháng chiến mạnh mẽ, Việt Nam đã nhận được sự hỗ trợ về vũ khí, tài chính và các nguồn lực khác từ các xã hội chủ nghĩa quốc gia, cũng như sự ủng hộ về mặt chính trị từ các phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới. Đây là yếu tố quan trọng giúp Việt Nam có thể hỗ trợ sức mạnh quân sự vượt trội của Mỹ và các đồng minh.
Kinh nghiệm lớn nhất từ cuộc chiến kháng chiến Mỹ là bài học về sự triển khai, hãy quyết tâm và ý chí chiến đấu không ngừng nghỉ. Dù đối mặt với vô vàn khó khăn, đặc biệt là khi đế quốc Mỹ đưa quân vào miền Nam với sức mạnh quân sự lớn mạnh, nhân dân Việt Nam vẫn không bước. Sự sáng tạo trong chiến tranh nhân dân, chiến tranh du kích, cũng như sự quyết tâm bảo vệ độc lập và chủ quyền dân tộc đã tạo nên sức mạnh vô song, dẫn đến chiến thắng lịch sử 30/4/1975, kết thúc chiến tranh, thống nhất đất nước.
Thắng lợi này vẫn là điều cần thiết để phát triển một nền tảng chính trị vững chắc, củng cố nội bộ đoàn thể, đồng xây dựng và duy trì một chính quyền mạnh mẽ, có khả năng điều phối và đạo đức mọi mặt sức mạnh trong cuộc chiến kháng chiến.