Giải BT SGK Bài 12 Sinh học 9: Cơ chế xác định giới tính

Bài tập 1 trang 41 SGK Sinh học 9

Nêu những điểm khác nhau giữa NST giới tính và NST thường.

NST giới tính và NST thường có những đặc điểm khác nhau rõ ràng về vai trò, cấu trúc, và số lượng.

NST giới tính có chức năng đặc biệt trong việc quy định giới tính của sinh vật. Ở người, có hai loại NST giới tính chính là X và Y. Số lượng của NST giới tính ít hơn so với NST thường; cụ thể, ở người có hai NST giới tính trong tổng số 46 NST (23 cặp). Cấu trúc của NST giới tính cũng khác biệt: NST X thường lớn hơn và chứa nhiều gen hơn so với NST Y. Gen trên NST giới tính không chỉ quyết định giới tính mà còn ảnh hưởng đến một số tính trạng khác như bệnh máu khó đông hay mù màu (liên quan đến gen trên NST X).NST thường (hay còn gọi là NST không liên quan đến giới tính) chiếm phần lớn số lượng trong bộ NST của cơ thể. Ở người, có 22 cặp NST thường. Các NST này không tham gia trực tiếp vào việc xác định giới tính mà chịu trách nhiệm mã hóa thông tin di truyền quy định các tính trạng khác của cơ thể như chiều cao, màu da, và cấu tạo cơ quan.

Sự khác biệt quan trọng nhất là NST giới tính quyết định giới tính của cơ thể và chỉ có một cặp trong bộ NST, trong khi NST thường chiếm đa số và đảm bảo việc mã hóa các đặc điểm sinh học khác.

Bài tập 2 trang 41 SGK Sinh học 9

Trình bày cơ chế sinh con trai, con gái ở người. Quan niệm cho rằng người mẹ quyết định việc sinh con trai hay con gái là đúng hay sai?

Cơ chế sinh con trai hay con gái ở người được quy định bởi sự kết hợp của các giao tử trong quá trình thụ tinh. Người mẹ mang bộ NST giới tính XX, còn người cha mang bộ NST giới tính XY. Trong quá trình tạo giao tử, mẹ chỉ sản sinh ra trứng chứa NST X, trong khi cha tạo ra hai loại tinh trùng: một loại mang NST X và một loại mang NST Y.

Khi tinh trùng mang NST X kết hợp với trứng (chứa NST X), hợp tử sẽ mang bộ NST XX và phát triển thành con gái.Khi tinh trùng mang NST Y kết hợp với trứng, hợp tử sẽ mang bộ NST XY và phát triển thành con trai.

Như vậy, việc sinh con trai hay con gái phụ thuộc vào loại tinh trùng của người cha tham gia thụ tinh. Quan niệm cho rằng người mẹ quyết định việc sinh con trai hay con gái là sai. Vai trò của người mẹ trong quá trình thụ tinh là cung cấp trứng chứa NST X, trong khi tinh trùng từ người cha mới quyết định giới tính của con.

Bài tập 3 trang 41 SGK Sinh học 9

Tại sao trong cấu trúc dân số tỉ lệ nam : nữ xấp xỉ bằng nhau?

Tỉ lệ nam : nữ xấp xỉ 1 : 1 trong cấu trúc dân số là kết quả của cơ chế phân ly và tổ hợp ngẫu nhiên của các NST giới tính trong quá trình tạo giao tử và thụ tinh.

Trong quá trình giảm phân ở nam giới, tinh hoàn sản xuất hai loại tinh trùng với tỉ lệ ngang nhau: 50% tinh trùng mang NST X và 50% tinh trùng mang NST Y.Ở nữ giới, tất cả các trứng đều mang NST X.Sự thụ tinh xảy ra hoàn toàn ngẫu nhiên giữa tinh trùng và trứng, dẫn đến cơ hội thụ tinh bởi tinh trùng mang NST X hoặc Y là ngang nhau.

Điều này đảm bảo rằng số lượng trẻ em nam và nữ sinh ra có tỉ lệ xấp xỉ 1 : 1.

Ngoài ra, trong quần thể lớn, yếu tố ngẫu nhiên sẽ được bù trừ qua nhiều thế hệ, giúp duy trì tỉ lệ nam : nữ gần như ổn định. Tỉ lệ này rất quan trọng cho sự cân bằng sinh học và xã hội, đảm bảo nguồn lực lao động và tái sản xuất.

Bài tập 4 trang 41 SGK Sinh học 9

Tại sao người ta có thể điều chỉnh tỉ lệ đực : cái ở vật nuôi. Điều đó có ý nghĩa gì trong thực tiễn?

Người ta có thể điều chỉnh tỉ lệ đực : cái ở vật nuôi nhờ các phương pháp can thiệp vào quá trình thụ tinh hoặc phát triển phôi. Một số phương pháp phổ biến bao gồm:

  1. Phân loại tinh trùng: Dựa trên sự khác biệt giữa tinh trùng mang NST X và tinh trùng mang NST Y (như khối lượng DNA hoặc kích thước), người ta có thể tách tinh trùng bằng các kỹ thuật như ly tâm hoặc sử dụng máy phân loại tế bào.

  2. Thụ tinh nhân tạo: Sử dụng tinh trùng đã được phân loại để thụ tinh nhân tạo, giúp tăng tỉ lệ sinh vật nuôi có giới tính mong muốn.

  3. Điều chỉnh môi trường nuôi cấy: Ở một số loài, nhiệt độ, độ ẩm hoặc ánh sáng có thể ảnh hưởng đến sự phát triển của phôi, từ đó tác động đến giới tính của con non.

Việc điều chỉnh tỉ lệ đực : cái có ý nghĩa lớn trong thực tiễn:

Tăng năng suất kinh tế: Chẳng hạn, trong ngành chăn nuôi bò sữa, người ta ưu tiên sinh ra bê cái để tăng sản lượng sữa. Ngược lại, trong ngành chăn nuôi lấy thịt, bê đực được ưa chuộng vì tốc độ tăng trưởng nhanh.Bảo tồn loài: Điều chỉnh tỉ lệ giới tính giúp tăng khả năng sinh sản ở những loài động vật nguy cấp.

Bài tập 5 trang 41 SGK Sinh học 9

Ở những loài mà giới tính đực là giới dị giao tử thì những trường hợp nào trong các trường hợp sau đảm bảo tỉ lệ đực : cái xấp xỉ 1 : 1?

Ở loài mà giới tính đực là giới dị giao tử (ví dụ: người, một số loài động vật có vú), tỉ lệ đực : cái xấp xỉ 1 : 1 khi các điều kiện sau được đảm bảo:

a) Số giao tử đực bằng số giao tử cái: Sai. Ở loài có giới dị giao tử, chỉ đực mới sản xuất hai loại giao tử mang NST X và NST Y, còn cái chỉ tạo giao tử mang NST X. Điều kiện này không ảnh hưởng trực tiếp đến tỉ lệ giới tính.

b) Hai loại giao tử mang NST X và NST Y có số lượng tương đương: Đúng. Khi số lượng tinh trùng mang NST X và NST Y bằng nhau, cơ hội thụ tinh ngẫu nhiên sẽ đảm bảo tỉ lệ xấp xỉ 1 : 1.

c) Số cá thể đực và số cá thể cái trong loài vốn đã bằng nhau: Sai. Đây là kết quả chứ không phải điều kiện đảm bảo tỉ lệ giới tính 1 : 1.

d) Sự thụ tinh của hai loại giao tử đực mang NST X và NST Y với trứng có số lượng tương đương: Đúng. Khi sự thụ tinh diễn ra hoàn toàn ngẫu nhiên giữa tinh trùng mang NST X và NST Y với trứng, tỉ lệ đực : cái sẽ xấp xỉ 1 : 1.

Như vậy, các điều kiện b và d là những yếu tố đảm bảo tỉ lệ đực : cái xấp xỉ 1 : 1.

Chia sẻ bài viết
Bạn cần phải đăng nhập để đăng bình luận
Top